NGƯỜI CÔNG DÂN BỊ BỎ QUÊN. Thông điệp của Bác Sĩ Maria Montessori gửi UNESCO nhân dịp sinh nhật thứ ba của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền vào ngày 10 tháng 12 năm 1951

bởi tuonglaivietnam

Nghiêm Phương Mai dịch

@IVNF – GIÁO DỤC

Nhân dịp thế giới mừng nămsinh nhật thứ ba của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền vào ngày 10 tháng 12 năm 1951, tổ chức UNESCO đã mời nữ bác sĩ Maria Montessori gửi một thông điệp chung nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự kiện nhiều nước trên thế giới đã cùng cam kết và đảm bảo tôn trọng các nguyên tắc đã đề ra trong bản Tuyên Ngôn về các quyền con người trong các lãnh vực chính trị, giáo dục và văn hóa trong chính sách và sinh hoạt hàng ngày.
Trong thông điệp này, Maria Montessori đòi hỏi quyền lợi cho trẻ em mà 40 năm sau mới được công nhận. Ngày này, tại nhiều nơi trên thế giới hay ngay ở Việt Nam, tình trạng quyền lợi và nhân phẩm của trẻ em chưa được tôn trọng ngày càng trầm trọng. Vì vậy nội dung bức thông điệp dường như vẫn còn mang tính thời đại và đáng đọc lại để suy ngẩm và hành động thức thời.

 

NGƯỜI CÔNG DÂN BỊ BỎ QUÊN.
Thông điệp của Bác Sĩ Maria Montessori gửi UNESCO

nhân dịp sinh nhật thứ ba của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền vào ngày 10 tháng 12 năm 1951.
Từ cơn biến động to lớn đã xuất hiện một viễn kiến về hòa bình và công lý và khi khủng hoảng ấy đã qua, nhiều dân tộc đã đoàn kết lại để có những biện pháp nhằm đảm bảo rằng điều ấy sẽ không bao giờ xảy ra nữa, nếu những dị biệt giữa người và người dẫn đến một thảm họa với tầm mức như vậy, rằng những cơn bảo lốc của ích kỷ, hận thù, độc ác không tưởng tượng nổi và kinh hoàng sẽ qua đi, rằng sẽ không cần phải tàn phá khi cố bảo vệ những lý tưởng nhân bản trong tuyệt vọng.
Từ dàn nhạc các dân tộc này, trỗi lên Bản Tuyên Ngôn mà chúng ta đang ăn mừng ngày hôm nay.
Người ta luôn luôn tránh né, kiềm chế những điều khủng khiếp, nhưng chỉ riêng đối với gia đình, nhóm riêng và nước của chính họ. Ai cũng tìm sự cứu thoát và miễn nhiễm bằng sự cô lập. Như Boccaccio đã diễn tả, có những kẻ nghĩ rằng họ có thể trốn tránh bệnh dịch bằng sự tự ưu đãi. Bất cứ điều gì xảy ra bên ngoài các lằn ranh của họ khiến họ đầy lòng biết ơn đối với Thượng Đế đã che chở họ khỏi hình phạt như thế.
Tuy nhiên, không có bức tường nào có thể ngăn cản bệnh dịch và không có hiệp ước nào có thể ngăn ngừa những thảm khốc của chiến tranh, và những khủng khiếp cùng chịu đã xuyên thấu lớp vỏ của sự lảnh đạm đang bao trùm các tâm hồn và khiến chúng trở nên thờ ơ trước các đau khổ của tha nhân.
Mọi đau khổ cảm nghiệm đều như nhau cho kẻ sống trong hiện tại và quá khứ, cho kẻ ở xa và ở gần, cho kẻ cùng chủng tộc và cho người khác giống.
Nhân loại đã tìm được linh hồn của nó và con người nhận ra những tâm tình của chính họ trong mỗi một cá nhân. Kết quả có được là Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền.
Trong quá khứ, đức Bác Ái được dành chỉ tình nhân ái đối với các nô lệ, người nghèo khó và kẻ già yếu. Để an ủi họ, những cố gắng riêng lẻ được lập đi lập lại qua nhiều thế kỷ, nhưng các cải cách xã hội đều tan vỡ vì những bức tường của thờ ơ và dốt nát. Giữa vô số kẻ đau khổ, một số ít đã nhận lảnh sự trợ giúp với lòng khiêm nhường và biết ơn của kẻ nhận được một ân huệ bất ngờ; như một đặc ân từ một Thượng Đế toàn năng.
Thế là sau cơn bảo, các dân tộc gặp nhau và cái từng là điều bác ái nay trở thành một cái quyền.
Và mặt trời đã chiếu rọi trên tất cả các nạn nhân của sự bỏ rơi và bất công. Họ không còn nhận lãnh sự sỉ nhục của bố thí nhưng được trao cho phẩm giá của quyền lợi.
Bản Tuyên Ngôn không còn để kêu gọi lòng sùng tín của kẻ mạnh và quyền năng với những điều răn như ” Ngươi sẽ không giết người’, ‘ Ngươi sẽ không trộm cướp’, nhưng là để loan báo đến những ai đang đắm chìm trong yếu kém, bần cùng hay tra tấn: ‘ Bạn có quyền được che chở’, ‘ Nếu bạn không có sức để làm ăn sinh sống, bạn có quyền được nuôi dưởng’.
Kẻ già yếu thấy được ánh sáng, kẻ nô lệ, các bà mẹ bị bỏ rơi và các trẻ em vô tội cũng vậy; và nơi nào có đau đớn, niềm vui được tái sinh và một niềm tin mới rọi sáng.
Một tuyên ngôn thông thường chỉ là chuyện nhỏ. Nhiều bản tuyên ngôn soạn ra trong quá khứ chưa hề sinh hoa kết quả.
Tuy nhiên, bản tuyên ngôn này được tức khắc chấp hành: tổ chức UNESCO đã được thành lập và trên khắp địa cầu, các chuyên gia được gửi đến để thi hành những chỉ thị của tình hữu nghị mới. Các chuyên gia này gắng sức phá tan các rào cản do thờ ơ và thành kiến.
Từ đó, nơi nào có mời gọi, họ đến và họ sẽ đến dù không được gọi bởi kẻ thiếu thốn thường không ý thức được nỗi khốn khổ của họ.
Mặc dù đã có nhiều việc đã được thực hiện trong ba năm qua, chân trời vẫn còn tối tăm mù mịt. Với một tuyên ngôn đơn giản, chúng ta không thể biến đổi một nhân loại với những trái tim chai lì và ngờ vực_cũng tương tự như một bản tuyên ngôn không thể trả lại ánh sáng cho kẻ đã mù lòa hay chữa lành kẻ tật nguyền. Như ngày sẽ đến khi các bà mẹ nâng cao con trẻ của họ lên hình ảnh Đấng Ki-tô, trò chuyện, cầu nguyện với Ngài, họ sẽ đặt Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền bên tượng ảnh và đọc cho các con họ nghe. Và cũng như thế, các bà mẹ Ấn giáo, Hồi giáo, Phật giáo và tất cả các bà mẹ trên trái đất, ngày nay, với lòng thành tín giản dị và trực giác của người mẹ sẽ đem con sơ sinh của họ, dù bé chưa hiểu được lời của mẹ, đến trước biểu tượng mà đối với họ, tượng trưng cho đấng Thiêng Liêng.
Cũng theo thể thức mà trẻ em ngày nay được các tư tưởng tôn giáo của nhóm mình nhập tâm một cách vô thức, các trẻ em mai sau sẽ lấy bản Tuyên ngôn Nhân Quyền làm của chính trẻ. Những lời trong Bản Tuyên ngôn sẽ được khắc ghi vào tâm hồn của trẻ em như các Điều Răn của Thiên Chúa đã được ghi khắc trên đá.
Áo choàng của lòng bác ái và tình huynh đệ sẽ là biểu tượng của Nhân loại mới. Nó sẽ trở thành tiêu chuẩn mà Liên Hiệp Quốc đã nêu cao để ủng hộ các quyền của con người.
Và chính các trẻ em sẽ khai triển đề án lớn lao này, dù rằng trên thực tế, khi được cưu mang, nhân phẩm của trẻ em không được công nhận. Thật ra, bản Tuyên ngôn Nhân Quyền dường như chỉ dành riêng cho xã hội người lớn.

Trong 30 điều khoản phân tích các quyền con người, chỉ có đoạn thứ hai trong điều 25 là có đề cập đến trẻ em: ‘Các bà mẹ và trẻ sơ sinh phải được hưởng sự chăm sóc và trợ giúp đặc biệt.’
Và sự đề cập này thật sự nhỏ nhoi, bởi vì, mặc dù đặc biệt, trợ giúp này được xếp vào diện trợ cấp cho kẻ tật nguyền, thiếu may mắn hay già yếu. Quyền duy nhất được đặc biệt trao cho trẻ em là chúng phải được che chở như nhau dù được xem là con chính thức hay không chính thức. Bản thân con trẻ không được nghĩ đến. Trẻ tiếp tục bị xem như là một kẻ yếu kém, không có giá trị gì cho định mệnh của nhân loại; một phụ bộ lệ thuộc vào người mẹ và Thiên nhiên.
Vai trò của trẻ em trong nhân loại, vai trò khiến trẻ được gọi là ‘ cha của con người’ và là ‘nguồn lực hướng dẫn sự hình thành con người’ nói chung dường như vẫn còn bị làm ngơ.
Người ta chưa ý thức được rằng có hai nguồn lực mạnh mẽ trong đời sống con người: nguồn lực lèo lái sự hình thành con người (tuổi ấu thơ) và nguồn lực hướng dẫn sự xây dựng nên xã hội (tuổi trưởng thành). Hai lực này đan xen chặt chẻ với nhau đến nổi nếu một bên bị xao lảng, bên kia không thể nào đạt được.
Người ta không ý thức rằng quyền lợi của người lớn cần phải tùy thuộc vào quyền lợi của trẻ em.
Quan tâm xã hội hay quyền lợi hay các tuyên ngôn không thể xét đến những yếu tố liên quan chặt chẻ với nhau như vậy một cách riêng lẻ. Nếu chúng ta tiếp tục chỉ quan tâm đến người lớn, khoảng trống không, một trong những nguyên nhân chính của những bất cân bằng xã hội, sẽ luôn tồn tại.
Người lớn không thể nhảy vào đời như những người nhảy dù sắp chinh phục một miền đất xa lạ. Các thế hệ nối tiếp nhau không phải là một chuỗi người lớn tuần tự rơi xuống như mưa trên trái đất. Mỗi con người đều phát triển từ một đứa trẻ: những năng lực thôi thúc nhân loại xuất phát từ sự khai triển các năng lực tiềm ẩn trong con trẻ.
Quyền đầu tiên của Con Người, Quyền Căn Bản phải nhìn nhận quyền của đứa trẻ được giúp đỡ để vượt thắng những chướng ngại vật có thể cản trở, đàn áp, hay làm chệch hướng các năng lực xây dựng của trẻ do đó từ chối với trẻ niềm thâm tín được trở thành một người lớn có hiệu năng và thăng bằng.
Trẻ em có vai trò cơ bản trong sự xây dựng nên con người . Nếu phẩm giá và quyền lợi của người lao động được công nhận, thì phẩm giá và quyền lợi của kẻ tạo nên con người cũng phải được công nhận. Dựa trên sự khẳng định về phẩm giá của trẻ con, chúng ta phải đảm bảo quyền lợi và tự do của trẻ em được lớn lên và phát triển toàn diện, để trẻ có thể đóng góp vào sự tiến bộ của con người với tất cả khả năng của trẻ, nhờ vậy trẻ hoàn thành sứ mệnh thiên nhiên đã trao phó.
Nếu con người được tạo thành từ thể vô thực là đứa trẻ sơ sinh, chính trong chu kỳ hình thành_nghĩa là trong giai đoạn sơ sinh_mà nó sẽ cần sự che chở cần thiết cho ‘con người’.
Vấn đề giáo dục là cơ bản vì đó là một nhu cầu cấp bách chung cho tất cả con người trên địa cầu.
Nếu chúng ta thật sự muốn đạt được bình đẳng và hòa hợp giữa người với người, chúng ta không được xao lảng thời điểm của sự sống khi những khác biệt về xã hội, lý tưởng và ngôn ngữ chia cách các nhóm người chưa xảy ra.
Nếu chúng ta muốn cố gắng kết hợp xã hội loài người, chúng ta phải nhìn nhận cá thể và xem con người là cá thể từ lúc mới sinh ra.
Chúng ta phải nhìn trẻ sơ sinh để thấu hiểu cái bí ẩn của sự sống của chúng ta. Chúng ta phải tìm hiểu làm sao một sinh vật khi mới sinh ra, không có khả năng hiểu biết và thiếu tự ý thức, không có trí nhớ và ý chí lại trở nên thông minh.
Làm sao một đứa bé, khi sinh ra, câm nín và vô ý thức, lại có thể xử dụng một ngôn ngữ đúng văn phạm để diển tả các ý muốn và ý tưởng đang xuất hiện trong sự huyền bí thâm sâu của sự hiện thành của nó, mặc cho những khó khăn gặp phải, mà không cần sự giúp đỡ của một người thầy?
Làm sao mà khi mới sinh ra, các cơ quan của cử động theo ý thức không có khả năng nâng đỡ và tuân thủ đứa trẻ, mà đứa bé bỗng nhiên đứng dậy và bắt đầu bước đi? Thật vậy, đứa trẻ hành xử như thể bé muốn chinh phục thế giới và sau này, giữa tuổi từ ba đến sáu, những trò chơi không mệt mỏi cung cấp cho trẻ những kinh nghiệm sẽ khiến trẻ trở thành một cá thể có ý thức.
Đây là thời điểm của những năng lực lớn lao và những bí ẩn sâu xa: con người phát triển như một hạt giống nằm sâu trong đất, nẩy mầm và tăng trưởng như một nhánh lúa.
Trẻ không đã là nó, nhưng trẻ trở thành nó.
Tế bào nẩy mầm tạo nên phôi thai và thân thể của bé sơ sinh trong bí mật, với tất cả các cơ quan phức tạp có chức năng cho phần còn lại của cuộc đời của nó. Và cũng như thế, trẻ sơ sinh tạo nên con người lớn hoàn chỉnh.
Trong trẻ sơ sinh, một quá trình phôi thai khác bắt đầu và tiếp tục trong những năm tháng mà trẻ trải qua để trở thành một con người có một tâm trí và một tinh thần.
Là loài duy nhất trong các loài, con người có hai thời kỳ phôi thai: một thời kỳ trước khi sinh ra lúc cơ thể được tạo ra và thời kỳ hậu sinh khi tinh thần của con người đơm chồi nảy lộc.
Lúc này, không có sự khác biệt về giai cấp, địa vị hay chủng tộc. Toàn thể nhân loại được dựng nên cùng một thể thức: mọi phôi thai tinh thần hấp thụ những đặc tính của môi trường của nó và tự tái tạo lại chúng bên trong chính nó. Nếu người ta lớn lên để trở thành khác nhau, chính là vì các trẻ em sinh ra họ đã thiết kế họ theo thời điểm và địa điểm nơi chúng sinh ra.
Nếu chúng ta càng tiếp tục chỉ thấy sự yếu ớt của đứa bé sơ sinh, càng tiếp tục xem bé như bị khiếm khuyết về tâm lý, chúng ta sẽ không nhìn thấy được cả bí mật cùng năng lực quan trọng nhất trong sự sống của con người. Và mưa rào đem đến những linh hồn mới để liên tục đổi mới sẽ bị mất dạng trong một biển thờ ơ và áp bức, thay vì dẫn đến sự cứu rỗi của những tâm trí khô khan đang héo mòn trong sa mạc vô ý thức của chúng ta.
Trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền, cái gì đã được trao cho trẻ em?
Sự trợ giúp đặc biệt cho các bà mẹ và trẻ sơ sinh. Có nghĩa là gì? Nhà giữ trẻ? Đền bù những bất công có thể gây nên bởi các luật lệ bất công hay các thành kiến xã hội?
Đúng, các khía cạnh này chắc chắn có tính quan trọng hàng đầu, nhưng chúng chỉ là những biện pháp cấp cứu đã thành cần thiết do tiến bộ văn minh đã tạo nên những điều kiện trầm trọng đối với trẻ nhỏ.
Trẻ em luôn luôn là người công dân bị bỏ quên.
Trong khi tiến hóa của văn minh đã dần dà đem đến những cải thiện cho điều kiện sinh sống của người lớn, điều kiện sinh sống của trẻ em đã thoái hóa. Đối với trẻ em, đời sống càng ngày càng không lành mạnh; thời gian trẻ sống bên mẹ luôn bị bớt đi; tự do hành động của trẻ bị giảm đi và sự tham gia của trẻ vào đời sống của người lớn gần như không có.
Nếu các quyền lợi của con người được công bố và nếu đứa trẻ được công nhận là kẻ làm nên con người, xã hội phải làm cái gì quan trọng hơn là chỉ có vài cố gắng rời rạc thường chỉ tăng thêm số các cơ quan một cách bừa bãi.
Hãy nhìn xem cái gì đã được thực hiện cho người lớn. Khi văn minh trở thành phức tạp hơn, các nhu cầu mới đã xuất hiện.Mặc dù chỉ để gửi thư, chuyển điện tín hoặc gia tăng tốc độ thông tin bằng máy móc, lại phải tạo thêm các Bộ để lo việc quản lý. Ngày nay, việc tạo ra một Bộ về Trẻ em lại càng thêm cần thiết để đáp ứng nhu cầu cấp bách nhất của thời đại chúng ta là vun trồng nhân loại.
Bộ này phải chăm sóc tuổi sơ sinh vẫn được xem là không đáng được sự quan tâm của các Bộ Giáo Dục _là những cơ quan tại nhiều nước, hiện nay, được xem là mối đe dọa ngu xuẩn đang bóp nghẹt nhân bản và dân chủ, do các hoạt động thức tiễn của họ chẳng bắt nguồn hoặc từ các yếu tố đòi hỏi cho sự phát triển tinh thần của con người hoặc từ nhân quyền hoặc từ chính sự dân chủ.Kẻ làm nên con người tinh thần không đáng cho các Bộ Giáo Dục quan tâm. Ai là kẻ bị bỏ rơi và bị thiếu thốn hơn nó?
Tôi không phải là người duy nhất công bố điều này. Ngày nay, nhu cầu trợ giúp tuổi sơ sinh đã được nhận ra một cách rộng rãi. Đúng ra, việc nghiên cứu sâu về trẻ con đang diễn ra trong khắp thế giới văn minh.
Các thí nghiệm mà các công tác viên và tôi đã thực hiện hơn 40 năm qua, trên khắp thế giới đã chứng minh rằng đứa trẻ , dù có nguồn gốc ở đâu, nếu được giáo dục trong giai đoạn đầu tiên của sự phát triển của nó, trẻ sẽ biểu lộ những đặc tính cao đẹp hơn hẳn những điều thường được gán cho trẻ.
Chúng ta thấy mình đang ở một thời điểm mà đời sống tinh thần bị xao lảng và chủ nghĩa vật chất được tôn vinh như một đức tính, thời điểm mà cái khéo léo thể chất của con người vượt xa cái của thiên nhiên và ở thời điểm mà chúng ta thoáng thấy được cái khủng khiếp của sự tàn phá toàn cầu.
Vì lý do đó, chúng tôi tuyên bố rằng sự phát triển của các năng lực sáng tạo, của những đặc tính cao cả hơn của con người là một trong những nhu cầu cấp bách nhất của đời sống xã hội chúng ta.

Maria Montessori
Roma, ngày 31, tháng 10, 1951
Nghiêm Phương Mai dịch
© NPM @VMEF
Courtesy: EsF @AMI

5 Trackbacks to “NGƯỜI CÔNG DÂN BỊ BỎ QUÊN. Thông điệp của Bác Sĩ Maria Montessori gửi UNESCO nhân dịp sinh nhật thứ ba của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền vào ngày 10 tháng 12 năm 1951”

Bình luận về bài viết này